Công nghệ và tính bền vững dẫn dắt xu hướng của thị trường chuỗi cung ứng lạnh trong thời gian tới

Giống như các khía cạnh khác của chuỗi cung ứng, các nhà quản lý chuỗi lạnh tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức bao gồm chi phí tăng cao, công suất container thấp và không gian nhà kho hạn chế. Các nhà bán lẻ, nhà phân phối cung cấp thực phẩm và nhà sản xuất đều bị căng thẳng bởi đại dịch COVID-19 và nay tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức mới, khiến họ chịu áp lực lớn trong việc đảm bảo giao hàng đúng sản phẩm, đúng thời gian và địa điểm.

Theo giám đốc thương mại tại East Coast Warehouse & Distribution, ông Kevin Daly, trong hai năm qua, chi phí cho một container nhập khẩu riêng lẻ đã tăng vọt và các chi phí phụ trợ liên quan đến việc nhập khẩu như tiêu hao nhiên liệu, công tác phí, khung gầm và nhiên liệu cũng tăng lên và góp phần làm giảm tỷ suất lợi nhuận.

Trong nhiều năm, các công ty dựa vào chuỗi cung ứng nhất quán và đáng tin cậy và dự báo nhập khẩu của khách hàng vững chắc. Tuy nhiên, ngày nay các công ty gặp khó khăn trong việc đưa ra dự báo do không thể kiểm soát được lộ trình di chuyển container. Số lượng tàu container neo đậu chờ hạ tải tại các cảng biển Hoa Kỳ gia tăng vì tình trạng tắc nghẽn, đặc biệt là ngoài khơi Bờ Tây. Ở chiều ngược lại hàng hóa xuất khẩu thiếu container rỗng để xếp hàng. Kết quả là, không gian nhà kho đang thiếu hụt đặc biệt là trong và xung quanh các cảng biển.

Không gian kho sẵn có tại các cảng gần như không có. Các nhà nhập khẩu đang phải tìm kiếm sâu hơn trong nội địa để giải quyết nhu cầu về kho bãi của họ, điều này dẫn đến những thách thức và chi phí bổ sung. Tắc nghẽn giao thông và thiếu tài xế xe tải khiến các đơn đặt hàng không được vận chuyển và giao đúng thời gian, dẫn đến các mặt hàng hết hàng trên kệ của các cửa hàng tạp hóa — một câu chuyện quá phổ biến trong vài năm qua.


Thay đổi nhu cầu
Trong khi đó, các động lực thị trường khác đang diễn ra. Các nhà điều hành dịch vụ kho hàng nhận thấy thị trường kho hàng tiếp tục phát triển, nhưng không tuyến tính như những năm qua. Tăng trưởng phụ thuộc các ưu tiên chuỗi cung ứng khác nhau khi các nhà sản xuất làm việc để đảm bảo rằng họ có lượng hàng tồn kho dồi dào cho mùa cao điểm sắp tới.

Thực phẩm và đồ uống là một trong năm ngành hàng đầu thúc đẩy nhu cầu về không gian kho lạnh tăng cao

Ken Reiff, đồng lãnh đạo của Tập đoàn Thực phẩm và Đồ uống Cushman & Wakefield, cho biết: “Người tiêu dùng đang chuyển sang tiêu thụ hàng tươi sống, không đông lạnh và các nhà chế biến ngày càng tăng thêm không gian cho hoạt động của họ”. Một ví dụ là việc công ty Tyson mở rộng nhà máy chế biến gia cầm trị giá 90 triệu đô la gần đây của mình ở Forest, Miss- nhằm mục đích nâng cao năng lực cung ứng sản phẩm thịt gà của công ty để phục vụ lượng người tiêu dùng toàn cầu ngày càng tăng. Doanh số bán gà đang tăng nhanh. Tất cả các loại thịt gà khác nhau đang được bán qua các cửa hàng tạp hóa, nhà hàng và cửa hàng thức ăn nhanh.

Chad Buch, giám đốc nghiên cứu công nghiệp tại công ty dịch vụ bất động sản thương mại toàn cầu JLL, cho biết nhu cầu của người tiêu dùng đối với thịt, hải sản và thực phẩm tươi sống, hữu cơ và chế biến sẵn cũng như các mặt hàng chủ lực như khoai tây chiên đông lạnh và bánh pizza cũng đang thúc đẩy nhu cầu cho không gian kho lạnh. Trên thực tế, nghiên cứu của JLL chỉ ra rằng thực phẩm và đồ uống hiện là lĩnh vực sản xuất lớn nhất ở Hoa Kỳ. Ngoài ra, chi tiêu của người tiêu dùng đang tăng lên trong lĩnh vực nhà hàng. Các nhà cung cấp hàng ăn uống cũng là một nguồn nhu cầu mạnh mẽ về không gian nhà kho lạnh. Nghiên cứu gần đây của JLL cũng chỉ ra rằng các thị trường thực phẩm và đồ uống lớn nhất đều nằm ở các trung tâm dân cư trọng điểm.

Thêm không gian đầu cơ

Tuy nhiên, các chuyên gia bất động sản lưu ý việc xây dựng các kho bảo quản lạnh mới đã chững lại.

Christopher Copenhaver, trưởng bộ phận ngành hàng Thực phẩm và Đồ uống tại Cushman & Wakefield cho rằng nhu cầu sẽ dần ổn định trong năm 2023, nhưng một số phân khúc sẽ thay đổi để phù hợp với thị hiếu tiêu dùng hậu dịch bệnh.

Ngoài ra, phần lớn không gian kho lạnh xây từ trước đến nay đang nhanh chóng trở nên lạc hậu do công nghệ thay đổi liên tục trong khi việc xây dựng, nâng cấp lại rất tốn kém. Rất nhiều công ty đã bỏ vốn để mở rộng kho hàng và xây dựng những kho hàng mới nhưng cũng không ít công ty có quy mô nhỏ hơn đang gặp khó khăn về tài chính để thực hiện sự chuyển đổi này.

Do đó, phần lớn sự phát triển trên thị trường bất động sản logistics gần đã chuyển sang phân khúc đầu cơ, theo đó kho hàng ít được xây dựng cho một khách hàng cụ thể. Các kho hàng được xây sẵn nhưng có thể được tùy chỉnh cho một số mục đích sử dụng, ví dụ yêu cầu các khu vực làm lạnh và tủ đông khác nhau. Điều này dẫn đến việc hình thành các tổ hợp kho lạnh quy mô lớn, được tích hợp công nghệ cho phép điều chỉnh linh hoạt theo người dùng.

Chicago, N.Y. và L.A. là những trung tâm lớn nhất cho ngành công nghiệp thực phẩm và đồ uống – Các đô thị Sun Belt đang phát triển nhanh nhất.

Theo Cushman và Wakefield, thị trường mạnh nhất là ở các trung tâm dân cư cốt lõi như New Jersey và khu vực tàu điện ngầm New York; Dallas / Fort Worth; Columbus, Ohio; Thung lũng Lehigh của Pennsylvania; Syphonix; và California.

Một số chủ đầu tư đang hoạt động tích cực trong thị trường bất động sản kho lạnh.  Saxum, Karis Cold Storage và Scout Cold là ba công ty thành công nhất.

Vào ngày 21 tháng 7 năm 2022, Arcadia Cold Storage and Logistics đã động thổ một trung tâm phân phối rộng 227.500 foot vuông ở Hazleton, Pa. Cơ sở này sẽ cung cấp 30.884 vị trí pallet, nhiệt độ bên trong dao động từ -10 độ đến 38 độ, cùng với các phòng có thể chuyển đổi, không gian bến bãi và cửa ra vào để quản lý một loạt các dịch vụ phân phối và hoàn thiện đơn hàng. Arcadia báo cáo rằng cơ sở đang được xây dựng để phục vụ các nhà sản xuất thực phẩm, nhà bán lẻ và các công ty dịch vụ thực phẩm đang tìm kiếm cơ hội hợp lý nhất để giảm chi phí vận chuyển.

Tuy nhiên, các động lực thị trường cạnh tranh tiếp tục ảnh hưởng đến ngành. Nhu cầu trên diện rộng đối với công suất kho lạnh đang được bù đắp bởi lãi suất tăng và chi phí xây dựng cao hơn.

Mathew Moore, phó chủ tịch phát triển thị trường tại Americold, một trong những công ty vận tải và kho bãi có kiểm soát nhiệt độ hàng đầu ở Mỹ nhận định hầu hết các tác nhân trên thị trường kho lạnh Hoa Kỳ đều đang băn khoăn trước câu hỏi: “Thị trường sẽ phải trả mức giá nào để có thêm công suất, đặc biệt khi phí xây dựng ngày càng tăng và giá trị tài sản giảm nếu nhu cầu đi xuống?"

Từ quan điểm đầu tư, Moore cho rằng các cơ sở chuyên dụng với các cam kết với khách hàng lâu dài, vốn là hoạt động kinh doanh cốt lõi của công ty Americold, sẽ tiếp tục hấp dẫn vì ít bị ảnh hưởng bởi lãi suất và lạm phát.

Điểm độc đáo trong hoạt động kinh doanh của công ty Americold là phục vụ cả nhà cung cấp và nhà phân phối. Điều này có nghĩa là hiểu các doanh nghiệp và chuỗi cung ứng của họ để đảm bảo rằng thực phẩm được vận chuyển một cách an toàn và hiệu quả đến điểm đến tiếp theo. Americold liên tục đầu tư cho nguồn nhân lực và phát triển một nền văn hóa và môi trường cho phép họ thu hút và giữ chân những nhân sự tài năng nhất.

Xu hướng M&A

Các công ty cũng nhận thấy rằng bằng cách mở rộng thông qua sáp nhập và mua lại (M&A), họ có thể phục vụ khách hàng trên toàn quốc tốt hơn. Reiff nói: “Việc mua lại các nhà phân phối khu vực nhỏ hơn và tạo lỗ hổng trong hệ thống phân phối thông qua M&A sẽ đẩy quá trình này nhanh hơn là xây dựng nhiều cơ sở hơn”.

Các công ty chuỗi lạnh lớn như Lineage Logistics và Americold đặc biệt tích cực trong lĩnh vực M&A. Ví dụ, trong năm 2021, Americold đã hoàn thành các thương vụ trị giá khoảng 766 triệu USD mua lại và bổ sung 14 cơ sở với tổng trị giá 66 triệu feet khối vào mạng lưới toàn cầu của mình, bao gồm Liberty Freezers ở Canada, Bowman Stores ở Anh, KMT Brrr! và Quản lý Cơ sở Newark ở New Jersey, ColdCo Logistics ở Missouri, và Cửa hàng lạnh Lago ở Úc.

Americold cũng đã công bố khoản đầu tư 168 triệu USD để mở rộng và phát triển, bao gồm các dự án ở Atlanta; Dunkirk (N.Y), Dublin (Ireland); Spearwood (Úc); và Barcelona (Tây Ban Nha), cung cấp khả năng hiển thị bổ sung cho chuỗi cung ứng lạnh trong những năm tới khi các dự án này được hoàn thành và đưa vào mạng lưới kho lạnh của công ty.

Tự động hóa vẫn là xu hướng nổi trội:
Bên cạnh việc mở rộng không gian kho bãi, các hệ thống tự động hóa hiện đại là điều cần thiết để đảm bảo chất lượng và an toàn thực phẩm và giữ cho chi phí chung ở mức thấp nhất có thể. Điều này bao gồm các giải pháp tự động hóa như pallet, hệ thống lưu trữ và truy xuất tự động (ASRS), băng tải, giải pháp lấy hàng tự động, v.v.

Các công ty kho lạnh lớn như Americold và Lineage tiếp tục xây dựng các kho tự động phức tạp, đòi hỏi nhiều vốn, nhưng những dự án chủ yếu phục vụ cho chính họ.

Một trong những cơ sở như vậy là trung tâm phân phối thế hệ mới, hoàn toàn tự động ở Olathe, Kan, được thiết kế và xây dựng bởi Lineage Logistics cho Smithfield Foods. Cơ sở này được khai trương vào tháng 4/2022, có công nghệ hàng đầu trong ngành kết hợp các cải tiến trong lĩnh vực robot, mô phỏng số, nhiệt động lực học, thuật toán, thị giác máy tính và phần mềm để cho phép truy cập thực phẩm đáng tin cậy và hiệu quả. Trung tâm phân phối này trải dài gần 20 triệu feet khối với hơn 62.000 vị trí pallet, với 18 cần cẩu tự động di chuyển hàng tồn kho vào, ra và trong cơ sở.

Tính bền vững trong chuỗi lạnh hiện là ưu tiên hàng đầu
Tính bền vững hiện là yếu tố quan trọng đối với các nhà phát triển và vận hành kho lạnh khi các công ty đối mặt với chi phí, đặt mục tiêu sử dụng năng lượng và tìm cách vận hành với hiệu quả cao nhất.

Nhà cung cấp dịch vụ kiểm soát nhiệt độ Kho lạnh Hoa Kỳ (USCS) gần đây đã công bố tính bền vững một cách mạnh mẽ như sau: “ Tính bền vững đạt được thông qua thiết kế và xây dựng nhà kho hiện đại, sử dụng công nghệ làm lạnh thân thiện với môi trường và sử dụng các vật liệu và công nghệ tiết kiệm năng lượng”.  Công ty tuyên bố rằng mục tiêu của họ là "tốt nhất trong điều kiện lạnh" trong khi đạt được mức giảm 1,5% lượng khí thải carbon so với năm trước.

Christopher Copenhaver, đồng lãnh đạo của Bộ phận Thực phẩm và Đồ uống tại Cushman & Wakefield, nhận xét: “Nhiều tập đoàn đang cố gắng trở thành những doanh nghiệp “xanh”. “Đầu tư vào Môi trường, Xã hội và Quản trị [ESG] là ưu tiên mới của các nhà đầu tư và quỹ đầu tư, và các công ty cần phải có những hệ thống đó.”

Trong 5 năm qua, USCS báo cáo rằng họ đã giảm 12% lượng phát thải khí nhà kính (GHG) trong khi tăng 31% công suất.

Năm 2021, 203 địa điểm ở Châu Mỹ đã được Liên minh Chuỗi lạnh Toàn cầu (GCCA) công nhận vì đã thúc đẩy xuất sắc năng lượng trong kho bãi có kiểm soát nhiệt độ theo Chương trình Công nhận Năng lượng Xuất sắc của tổ chức này.

GCCA đã phát triển và khởi động chương trình tập trung vào việc thúc đẩy các nhà khai thác kho lạnh thiết lập, duy trì và nâng cao “văn hóa tiết kiệm năng lượng” của họ. Theo GCCA, chi phí năng lượng trong nhà kho là chi phí cao thứ hai trong ngành kho lạnh sau chi phí nhân công.

Các trung tâm phân phối (DC) cũng đang dần được trang bị những hệ thống chọn lớp, kiểm soát nhiệt độ, theo đó chọn lớp tháo rời và lắp ráp lại các pallet hàng hóa một cách tự động, nhanh chóng, chính xác, quy trình này trước đây được thực hiện thủ công. Kết quả là, robot và phần mềm tự động hóa hoàn toàn hơn 97% quá trình di chuyển sản phẩm thông qua cơ sở.

Công ty Lineage đã cài đặt công nghệ tế bào nổ (blast cell technology), công nghệ này đã được cấp bằng sáng chế giúp giảm thời gian đóng băng giảm mức sử dụng năng lượng khoảng một nửa so với công nghệ truyền thống. Điều này phù hợp với các mục tiêu về tính bền vững, sự hài lòng của khách hàng và hiệu quả của Smithfield. Smithfield đã cam kết giảm thiểu phát thải carbon, giảm phát thải khí nhà kính 30% và giảm một nửa chất thải thực phẩm trong các hoạt động của công ty ở Hoa Kỳ vào năm 2030.

 
Trong tin sinh học, Basic Local Alignment Search Tool, hay BLAST, là một giải thuật để so sánh các chuỗi sinh học, như các chuỗi amino-acid của các protein hay của các chuỗi DNA khác nhau. Khi được cung cấp một thư viện hay cơ sở dữ liệu các chuỗi đó, một tìm kiếm BLAST sẽ cho phép nhà nghiên cứu tìm kiếm các chuỗi con giống với chuỗi có sẵn mà ta quan tâm. Ví dụ, tiếp sau việc khám phá ra các gen mà trước đây chưa biết ở chuột (loại mus musculus), một nhà khoa học sẽ thường thực thi một tìm kiếm BLAST trên genome người để tìm kiếm xem liệu con người có mang các gen giống vậy không; BLAST sẽ xác định các chuỗi nào trong genome người mà giống với gen chuột dựa trên sự giống nhau của chuỗi.

Để chạy, BLAST cần đầu vào là 2 chuỗi: một là chuỗi truy vấn (hay còn gọi là chuỗi đích) và một cơ sở dữ liệu chuỗi. BLAST sẽ tìm kiếm các chuỗi con trong câu truy vấn mà giống với các chuỗi con trong 
cơ sở dữ liệu chuỗi. Thông thường, khi sử dụng, chuỗi truy vấn là nhỏ hơn rất nhiều so với cơ sở dữ liệu, ví dụ: chuỗi truy vấn có thể chỉ gồm 1 nghìn nucleotide trong khi cơ sở dữ liệu chuỗi có hàng tỉ nucleotide.

BLAST tìm kiếm những 
bắt cặp trình tự có điểm số cao giữa chuỗi truy vấn và các chuỗi trong cơ sở dữ liệu bằng cách sử dụng phương pháp dựa trên kinh nghiệm (heuristic) để có thể có tìm được kết quả gần tốt bằng với giải thuật Smith-Waterman. Thuật toán bắt cặp trình tự tối ưu của Smith-Waterman là quá chậm khi tìm kiếm trong một cơ sở dữ liệu gen quá lớn như Ngân hàng Gen (GenBank). Bởi vậy, giải thuật BLAST dùng một hướng tiếp cận heuristic, dù ít chính xác hơn Smith-Waterman nhưng lại cho tốc độ nhanh hơn gấp 50 lần. Tốc độ và sự chính xác tương đối của BLAST là những cải tiến kĩ thuật quan trọng của các chương trình BLAST và những điều đó cho thấy lý do vì sao công cụ này lại là công cụ tìm kiếm phổ biến nhất trong tin sinh học.

Nguồn: VITIC (trích từ Báo cáo thị trường logistics Hoa Kỳ, số tháng 9/2022)